Không ít ý kiến cho rằng nên ăn cá hơn ăn thịt vì cá có nhiều dinh dưỡng hơn, một số người lại chọn ăn thịt vì hàm lượng protein cao, vậy ăn cá hay thịt tốt hơn?
Theo PGS.TS Nguyễn Duy Thịnh, nguyên giảng viên Viện Công nghệ Sinh học và Thực phẩm, Đại học Bách khoa Hà Nội, muốn so sánh giữa cá và thịt xem loại nào có giá trị dinh dưỡng hơn cần dựa vào nhiều yếu tố.
Giá trị dinh dưỡng của thực phẩm không dựa vào hàm lượng protein cao hay thấp, mà được tính bằng khả năng tiêu hóa trong cơ thể để biến thành chất dinh dưỡng hấp thụ.
Bài Viết Liên Quan
- Dùng thuốc kích thích miễn dịch đúng cách không dễ
- Dùng ớt chuông giảm cân như thế nào?
- Muốn em bé có nụ cười tỏa nắng, mẹ nhớ phải chăm sóc răng miệng cho trẻ từ khi còn nằm nôi
Ăn cá hay thịt tốt hơn được rất nhiều người quan tâm. (Ảnh minh họa)
Xét về tiêu hóa, cấu trúc trong cá lỏng lẻo, các sợi protein ngắn hơn, mềm hơn thịt. Cá sau khi chế biến bằng cách rán hoặc nấu hay kho, chín nhừ, khi nhai sẽ dễ hơn thịt, thậm chí cho vào miệng đã tan.
Khi ăn, thành phần trong cá tiếp xúc với enzym trong dạ dày sẽ phân giải thành các axit amin dễ hơn, dễ tiêu hơn.
Thịt có cấu trúc cơ học săn chắc hơn, dai hơn cá, khi vào cơ thể khó tiêu hơn. Vậy nên, so sánh ăn 100g cá và 100g thịt, cơ thể hấp thụ nhiều dinh dưỡng từ cá dễ hơn thịt. Từ đó, cá được coi là giàu dinh dưỡng hơn, có lợi cho con người, nhất là với người già.
Cá còn chứa rất nhiều khoáng chất quý. Các khoáng chất trong thịt ít hơn và không đa dạng như trong cá. Tuy nhiên, nhiều nơi nuôi cá sống trong môi trường nước rất bẩn, dễ nhiễm các chất độc kim loại nặng, chứa độc tố.
Ruột cá là bộ phận bẩn nhất, không tốt cho hệ tiêu hóa. Ruột cá có thể nhiễm ký sinh trùng, trứng sán, trứng giun và giun xoắn.
Chuyên gia lưu ý, khi ăn cần chọn cá sống trong môi trường sạch, loại bỏ ruột cá. Ngoài ruột cá, bạn không nên ăn uống mật, như mật cá trắm, có thể gây ngộ độc, nguy cơ t.ử v.ong.
Dù được cho là giàu giá trị dinh dưỡng hơn nhưng bạn không nên chỉ ăn cá. Thịt và các loại thực phẩm khác vẫn giàu dinh dưỡng và tốt cho sức khỏe, bạn cần có chế độ ăn lành mạnh là bổ sung đa dạng thực phẩm.
Điều này không chỉ giúp bổ sung đầy đủ thành phần chất dinh dưỡng mà còn tạo cảm giác ngon miệng. Với người cao t.uổi nên giảm bớt thịt, đặc biệt là thịt gia súc (loại 4 chân: bò, lợn, chó, dê và ăn cá nhiều hơn.
Ăn trứng thế nào mới đúng cách?
Trứng là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao nhưng nếu ăn quá nhiều hoặc ăn không đúng cách sẽ ảnh hưởng sức khỏe, vậy ăn trứng thế nào mới đúng cách?
Theo Ths.Bs Nguyễn Văn Tiến – Viện Dinh dưỡng Quốc gia, trứng là thức ăn quen thuộc và giàu chất dinh dưỡng, các chất dinh dưỡng lại có lệ cân đối, do vậy trứng có thể sử dụng cho cả t.rẻ e.m và người lớn.
Với trẻ nhỏ trên 6 – 7 tháng t.uổi, mỗi lần 1/4 lòng đỏ trứng gà vào xoong bột và 3 lần/tuần, trẻ từ 8 – 9 tháng t.uổi, mỗi bữa có thể cho ăn lòng đỏ trứng gà, hoặc 2 quả trứng chim cút, trẻ từ 10 – 12 tháng t.uổi ăn 1 lòng đỏ trứng gà/bữa/ tuần
Với người lớn, một tuần chỉ nên ăn 3 quả trứng. Người bị cao huyết áp hoặc cholesterol cao trong m.áu vẫn có thể ăn trứng, vì nó không làm tăng huyết áp và cholesterol m.áu. Tuy nhiên, với những người cao huyết áp và mỡ trong m.áu cao, một tuần chỉ nên ăn 2 quả trứng.
Ăn trứng thế nào mới đúng cách là băn khoăn của nhiều người. (Ảnh minh họa)
Theo chuyên gia dinh dưỡng, trứng là loại thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao, gồm đủ các thành phần: chất đạm, chất béo, canxi, sắt, kẽm, selen, vitamin B12, vitamin D, các acid béo no, acid béo không no một nối đôi và nhiều nối đôi, cholesterol. Hơn nữa, tỷ lệ các chất dinh dưỡng trong trứng rất phù hợp và cân đối.
Thành phần dinh dưỡng trong 100 gam trứng gà toàn phần như sau: 14,8 g chất đạm, 11,6 g chất béo, 55 mg can xi, 270 mg sắt, 47 g folat, 210 mg phospho, 1.29 g vitamin B12, 700 g vitaminA, acid béo nhiều nối đôi 1,36 g, cholesterol 470 mg, cùng nhiều chất khoáng, acid béo no và không no khác.
Trứng còn tươi, mới có hai phần với danh giới rõ dàng giữa lòng đỏ và lòng trắng, trứng để lâu thì danh giới đó bị xáo trộn.
Lòng đỏ trứng gà có giá trị dinh dưỡng rất cao, trong 100 gam có protein 13,6 gam, lipid 29,8 gam, 134 mg can xi, sắt 7,0 mg, kẽm 3,7 mg, folat 146 mg, vitamin A 960 g, cholesterol 2000mg và có rất nhiều các vitamin và khoáng chất khác, cũng như acid béo 1 nối đôi và nhiều nối.
Thành phần của lòng trắng có ít chất dinh dưỡng hơn, trong 100 gam gồm 10,3 gam protein, canxi 19 mg. Chất đạm của trứng là nguồn cung cấp rất tốt các acid amin cần thiết có vai trò quan trọng cho cơ thể, đặc biệt cần cho sự phát triển cả về cân nặng và chiều cao của trẻ.
Trứng có nguồn chất béo rất quí, đó là Lecithin. Lecithin thường có ít ở các thực phẩm khác (trừ đậu nành). Lecithin giúp giảm cholesterol, tăng HDL cholesterol (cholesterol tốt) và làm giảm LDL cholesterol (cholesterol xấu) hiện hữu trong cơ thể con người. Tác dụng này được cho là do các thành phần chất béo không bão hòa đa có trong lecithin.
Ngoài ra, Lecithin giúp giảm cân, giúp phá vỡ và phân tán mỡ trong thức ăn và trong m.áu thành những phân tử nhỏ hơn. Khi đó, cơ thể sẽ sử dụng lượng mỡ đã được phân chia nhỏ này để làm nguồn nhiên liệu cung cấp năng lượng cho cơ thể hơn là dự trữ trong các mô tế bào. Từ đó, giúp cơ thể giảm cân tốt hơn.
Mặc dù trứng chứa lượng cholesterol đáng kể (470 mg cholesterol/100g trứng gà), nhưng lại có tương quan thuận lợi giữa Lecithin và cholesterol, do vậy Lecithin sẽ có vai trò điều hòa cholesterol, ngăn ngừa quá trình xơ vữa động mạch và đào thải cholesterol ra khỏi cơ thể.
Lòng đỏ và lòng trắng trứng có độ đồng hóa khác nhau. Với lòng đỏ, do độ nhũ tương và các thành phần dinh dưỡng phân tán đều nên ăn sống hoặc chín đều rất dễ đồng hóa, hấp thu. Ăn lòng trắng trứng dễ gây khó tiêu và đồng hóa kém.
Theo Ths.Bs Nguyễn Văn Tiến, có thể áp dụng các biện pháp sau để chọn trứng chất lượng tốt.
– Soi trên nguồn ánh sáng: Nắm quả trứng trong lòng bàn tay, chỉ hở hai đầu trứng, mắt nhìn vào đầu trứng, đầu kia soi lên một nguồn ánh sáng (ánh sáng mặt trời hoặc sáng điện).
Quan sát phần bên trong của trứng có vết m.áu, ký sinh trùng, giun sán hay vật gì lạ không. Trứng soi có màu hồng, trong suốt với một chấm hồng, túi khí có đường kính
– Thả vào dung dịch nước muối 10%: Khi thả vào dung dịch trứng chìm xuống đáy nghĩa là trứng mới đẻ trong ngày. Trứng lơ lửng trong dung dịch có nghĩa là trứng 3 -5 ngày. Nếu trứng nổi trên mặt dung dịch thì trứng đã quá 5 ngày.
– Phương pháp lắc trứng: cầm quả trứng giữa hai ngón tay trỏ và ngón tay cái, khẽ lắc. Trứng mới lắc không kêu, trứng càng để lâu lắc càng kêu.